Căn cứ tính toán giá trị: Không có căn cứ tính toán giá trị xác lập rộng rãi. Căn cứ tính toán cho trao đổi là nhất thời và có thể biến động nhiều, ngay cả khi giá trị thực tế của hàng hóa được duy trì. Cản trở việc hình thành các hệ thống giá cả.
Phương thức trao đổi hiện vật có thể vô cùng cồng kềnh, ví dụ như một đàn bò, hay đàn dê, khiến cho hoạt động kinh tế không thể tiến hành khi quy mô lớn, và khó lòng có thể đa dạng hàng hóa cần trao đổi. (Thậm chí đến chợ quy mô lớn cũng không đủ chỗ!)
Chi phí để cất trữ hàng hóa chưa giao dịch tốn kém. Chứa thế nào 100 con bò bây giờ? Khi cất trữ nó thì không sinh ra lợi. Giữ 100 con bò thì sinh ra lợi ích gì, hay là đi dọn chất thải cũng hết ngày?!
(Thế nhưng ngày nay, khi cất tiền ở nhà băng dưới dạng tiền gửi, một khoản lãi sẽ sinh ra!)
Vấn đề thời gian không thể giải quyết. Chẳng hạn nếu bạn muốn đổi hàng hóa mình sản xuất ra lấy dịch vụ cắt tóc. Nhu cầu cắt tóc có thể xảy ra sau một tháng nữa, nhưng hàng hóa lại tồn tại ngay từ bây giờ! Bản chất của dịch vụ khó “cất trữ”. Nhớ rằng ngày nay, dịch vụ chiếm tới 76% sản lượng nền kinh tế Hoa Kỳ, và 78% của Bỉ (các quốc gia được coi là công nông nghiệp phát triển!)
Tiền giấy là: Sự lệ thuộc thuần túy vào khả năng đảm bảo tài chính trừu trượng với giá trị tương lai không chắc chắn. Cơ sở của lạm phát. Sau khi chấm dứt hệ thống tỷ giá cố định Bretton Woods vào năm 1971, áp lực lạm phát lên các đồng tiền tăng lên rõ rệt.
Tiền ở dạng sơ khai
Einzig đề xuất khái niệm của tiền ở dạng sơ khai trong xã hội cổ xưa là Một đơn vị hay một vật thể tuân theo một mức độ tiêu chuẩn khả dĩ chấp nhận, được sử dụng để tính toán hoặc thanh toán ở tỷ trọng sử dụng tương đối lớn trong xã hội, và được chấp nhận trong thanh toán chủ yếu với ý định sau này sẽ sử dụng nó để thanh toán tiếp (1966, tr. 317).
Tiền thực sự là một phát kiến quan trọng của con người, dù ở dạng sơ khai, và phát minh này cần đến năng lực của con người cố gắng tạo ra một bước tiến từ các giao dịch trao đổi hiện vật giản đơn đến chỗ có thể tính đếm sử dụng tiền.
Những lực đẩy không mang lý do kinh tế của tiền dạng sơ khai bao gồm: Tiền thách cưới, tiền bồi thường chết choc chiến tranh và tiền sử dụng trong lễ hội hay để làm trang sức, làm đẹp (lý do tín ngưỡng, chính trị).
Tình yêu và chiến tranh là những hành động cổ xưa nhất đi cùng lịch sử loài người, cũng kích thích hứng thú nhất, vì thế hoàn toàn tự nhiên ta nhận thấy vai trò thanh toán của tiền tệ gắn liền với những hoạt động này là khởi nguồn của những dạng tiền sơ khai đầu tiên. Ý nghĩa đầu tiên của chữ “thanh toán” trong tiếng La-tinh nghĩa là “mang lại sự hòa bình”. Với việc cưới xin, người đứng đầu dòng họ cô dâu, hoặc gia đình, đòi “bồi thường” cho việc hi sinh những lợi ích và dịch vụ người con gái cung cấp cho gia đình, dưới dạng tiền thách cưới. (Mặc dù chúng ta không muốn so sánh, nhưng phạm trù này khá tương tự với sự mở rộng của nó sau khi, khi con người phát triển sang việc sử dụng sức lao động của nô lệ, mà trong hàng thế kỷ sau này, người nô lệ được mệnh danh là “những tấm séc biết đi” (walking cheque-book, Davies, sđd).
Sau này, vai trò nhà nước với tư cách người duy nhất tạo ra tiền và đảm bảo sức thanh toán đồng tiền mới sáng rõ, cùng với việc nhà nước đảm bảo các điều kiện an ninh, quốc phòng cho xã hội. Đây là điểm kết nối có nguồn gốc rất xa xưa, và đi theo lô-gich phát triển của các hình thái kinh tế xã hội và bản thân ý nghĩa của đồng tiền.
Với ý nghĩa kinh tế quan trọng, và rất nhiều chức năng mà đồng tiền đóng vai trò chủ đạo thực hiện trong một nền kinh tế, các nhà nghiên cứu tiền tệ hiện đại và sơ khai đã đi tới nhiều bất đồng trong việc phân ranh giới giữa tiền thực và tựa tiền (tiền mở rộng, quasi-money). Khái niệm tiền mở rộng ngày nay đã rất thông dụng trong các nghiên cứu, và gần như được sử dụng không còn băn khoăn gì, với M1, M2…
Nguồn gốc kinh tế và các chức năng của tiền
Tiền có nhiều nguồn gốc khác nhau, không chỉ một, và điều này là vì lý do giản dị, bản thân tiền thực hiện nhiều chức năng quan trọng trong đời sống kinh tế-xã hội. Điều thú vị, tiền có thể thực hiện nhiều chức năng kinh tế theo cùng một cách, và một chức năng kinh tế theo nhiều cách!
Cũng chính vì tính chất này, sự đa dạng về nguồn gốc sinh ra tiền cũng như lịch sử hình thành các dạng thức khác biệt ban đầu của tiền tương đối dễ hiểu: hổ phách, hạt đá, vỏ ốc, trứng, lông chim, cồng chiêng, cuốc, ngà voi, ngọc bích, ấm đung, da thú, thảm, gia súc, lợn, thạch anh, gạo, muối, rượu, búa rìu, sợi… chỉ là liệt kê ngắn của những thứ đã từng được con người sử dụng làm tiền ở dạng thức sơ khai.
Bạc, vàng và xu đồng không nằm trong danh mục tiền sơ khai. Tiền mang các chức năng sau đây.
Chức năng cụ thể (cho giao dịch vi mô)
1. Đơn vị tính toán
2. Thước đo so sánh chung về giá trị
3. Phương tiện trung gian trao đổi
4. Phương tiện thanh toán
5. Tiêu chuẩn để thanh toán trong tương lai
6. Tích trữ giá trị
Chức năng tổng quát (hầu hết có tính chất kinh tế vĩ mô)
1. Tài sản có tính thanh khoản
2. Căn cứ giá cho hệ thống phân phối của thị trường
3. Nhân tố làm nảy sinh nền kinh tế
4. Nhân tố kiểm soát nền kinh tế
Sở dĩ chúng ta nói tới sự phân biệt tính cụ thể và trừu tượng là ám chỉ sự ngăn cách được tạo bởi ranh giới có hay không sự hạn chế về vật lý. Với các tính năng trừu tượng, không có rang buộc gì đáng kể về sự tồn tại vật lý của loại tiền sử dụng. Ví dụ, với chức năng đầu tiền, hầu như thứ vật dụng gì phổ biến cũng có thể được quy ước để đếm, dù là vỏ ốc hay con bò. Việc này, ngay trong thế giới hiện đại cũng được thực hiện, vì tính trừu tượng của nó. Trước khi ra đời đồng Euro chung cho các nước EU ngày nay, EU đã có một thời gian tương đối ngắn sử dụng một đồng tiền tính toán là đồng ECU. ECU chưa bao giờ tồn tại như một đồng tiền, nhưng các tài liệu và văn bản tính toán các giá trị kinh tế và cả giao dịch tài chính, thương mại sử dụng nó thì có thể tìm thấy khá sẵn ở cấp độ chính thức của chính phủ.
Cuối cùng, chúng ta cũng phải đi đến một khái niệm cho đồng tiền sơ khai: Tiền là bất cứ thứ gì được chấp nhận rộng rãi trong việc thanh toán và trong tính toán công nợ, thực hiện giao dịch tín dụng.
Theo : Vietnamica.net
Phương thức trao đổi hiện vật có thể vô cùng cồng kềnh, ví dụ như một đàn bò, hay đàn dê, khiến cho hoạt động kinh tế không thể tiến hành khi quy mô lớn, và khó lòng có thể đa dạng hàng hóa cần trao đổi. (Thậm chí đến chợ quy mô lớn cũng không đủ chỗ!)
Chi phí để cất trữ hàng hóa chưa giao dịch tốn kém. Chứa thế nào 100 con bò bây giờ? Khi cất trữ nó thì không sinh ra lợi. Giữ 100 con bò thì sinh ra lợi ích gì, hay là đi dọn chất thải cũng hết ngày?!
(Thế nhưng ngày nay, khi cất tiền ở nhà băng dưới dạng tiền gửi, một khoản lãi sẽ sinh ra!)
Vấn đề thời gian không thể giải quyết. Chẳng hạn nếu bạn muốn đổi hàng hóa mình sản xuất ra lấy dịch vụ cắt tóc. Nhu cầu cắt tóc có thể xảy ra sau một tháng nữa, nhưng hàng hóa lại tồn tại ngay từ bây giờ! Bản chất của dịch vụ khó “cất trữ”. Nhớ rằng ngày nay, dịch vụ chiếm tới 76% sản lượng nền kinh tế Hoa Kỳ, và 78% của Bỉ (các quốc gia được coi là công nông nghiệp phát triển!)
Tiền giấy là: Sự lệ thuộc thuần túy vào khả năng đảm bảo tài chính trừu trượng với giá trị tương lai không chắc chắn. Cơ sở của lạm phát. Sau khi chấm dứt hệ thống tỷ giá cố định Bretton Woods vào năm 1971, áp lực lạm phát lên các đồng tiền tăng lên rõ rệt.
Tiền ở dạng sơ khai
Einzig đề xuất khái niệm của tiền ở dạng sơ khai trong xã hội cổ xưa là Một đơn vị hay một vật thể tuân theo một mức độ tiêu chuẩn khả dĩ chấp nhận, được sử dụng để tính toán hoặc thanh toán ở tỷ trọng sử dụng tương đối lớn trong xã hội, và được chấp nhận trong thanh toán chủ yếu với ý định sau này sẽ sử dụng nó để thanh toán tiếp (1966, tr. 317).
Tiền thực sự là một phát kiến quan trọng của con người, dù ở dạng sơ khai, và phát minh này cần đến năng lực của con người cố gắng tạo ra một bước tiến từ các giao dịch trao đổi hiện vật giản đơn đến chỗ có thể tính đếm sử dụng tiền.
Những lực đẩy không mang lý do kinh tế của tiền dạng sơ khai bao gồm: Tiền thách cưới, tiền bồi thường chết choc chiến tranh và tiền sử dụng trong lễ hội hay để làm trang sức, làm đẹp (lý do tín ngưỡng, chính trị).
Tình yêu và chiến tranh là những hành động cổ xưa nhất đi cùng lịch sử loài người, cũng kích thích hứng thú nhất, vì thế hoàn toàn tự nhiên ta nhận thấy vai trò thanh toán của tiền tệ gắn liền với những hoạt động này là khởi nguồn của những dạng tiền sơ khai đầu tiên. Ý nghĩa đầu tiên của chữ “thanh toán” trong tiếng La-tinh nghĩa là “mang lại sự hòa bình”. Với việc cưới xin, người đứng đầu dòng họ cô dâu, hoặc gia đình, đòi “bồi thường” cho việc hi sinh những lợi ích và dịch vụ người con gái cung cấp cho gia đình, dưới dạng tiền thách cưới. (Mặc dù chúng ta không muốn so sánh, nhưng phạm trù này khá tương tự với sự mở rộng của nó sau khi, khi con người phát triển sang việc sử dụng sức lao động của nô lệ, mà trong hàng thế kỷ sau này, người nô lệ được mệnh danh là “những tấm séc biết đi” (walking cheque-book, Davies, sđd).
Sau này, vai trò nhà nước với tư cách người duy nhất tạo ra tiền và đảm bảo sức thanh toán đồng tiền mới sáng rõ, cùng với việc nhà nước đảm bảo các điều kiện an ninh, quốc phòng cho xã hội. Đây là điểm kết nối có nguồn gốc rất xa xưa, và đi theo lô-gich phát triển của các hình thái kinh tế xã hội và bản thân ý nghĩa của đồng tiền.
Với ý nghĩa kinh tế quan trọng, và rất nhiều chức năng mà đồng tiền đóng vai trò chủ đạo thực hiện trong một nền kinh tế, các nhà nghiên cứu tiền tệ hiện đại và sơ khai đã đi tới nhiều bất đồng trong việc phân ranh giới giữa tiền thực và tựa tiền (tiền mở rộng, quasi-money). Khái niệm tiền mở rộng ngày nay đã rất thông dụng trong các nghiên cứu, và gần như được sử dụng không còn băn khoăn gì, với M1, M2…
Nguồn gốc kinh tế và các chức năng của tiền
Tiền có nhiều nguồn gốc khác nhau, không chỉ một, và điều này là vì lý do giản dị, bản thân tiền thực hiện nhiều chức năng quan trọng trong đời sống kinh tế-xã hội. Điều thú vị, tiền có thể thực hiện nhiều chức năng kinh tế theo cùng một cách, và một chức năng kinh tế theo nhiều cách!
Cũng chính vì tính chất này, sự đa dạng về nguồn gốc sinh ra tiền cũng như lịch sử hình thành các dạng thức khác biệt ban đầu của tiền tương đối dễ hiểu: hổ phách, hạt đá, vỏ ốc, trứng, lông chim, cồng chiêng, cuốc, ngà voi, ngọc bích, ấm đung, da thú, thảm, gia súc, lợn, thạch anh, gạo, muối, rượu, búa rìu, sợi… chỉ là liệt kê ngắn của những thứ đã từng được con người sử dụng làm tiền ở dạng thức sơ khai.
Bạc, vàng và xu đồng không nằm trong danh mục tiền sơ khai. Tiền mang các chức năng sau đây.
Chức năng cụ thể (cho giao dịch vi mô)
1. Đơn vị tính toán
2. Thước đo so sánh chung về giá trị
3. Phương tiện trung gian trao đổi
4. Phương tiện thanh toán
5. Tiêu chuẩn để thanh toán trong tương lai
6. Tích trữ giá trị
Chức năng tổng quát (hầu hết có tính chất kinh tế vĩ mô)
1. Tài sản có tính thanh khoản
2. Căn cứ giá cho hệ thống phân phối của thị trường
3. Nhân tố làm nảy sinh nền kinh tế
4. Nhân tố kiểm soát nền kinh tế
Sở dĩ chúng ta nói tới sự phân biệt tính cụ thể và trừu tượng là ám chỉ sự ngăn cách được tạo bởi ranh giới có hay không sự hạn chế về vật lý. Với các tính năng trừu tượng, không có rang buộc gì đáng kể về sự tồn tại vật lý của loại tiền sử dụng. Ví dụ, với chức năng đầu tiền, hầu như thứ vật dụng gì phổ biến cũng có thể được quy ước để đếm, dù là vỏ ốc hay con bò. Việc này, ngay trong thế giới hiện đại cũng được thực hiện, vì tính trừu tượng của nó. Trước khi ra đời đồng Euro chung cho các nước EU ngày nay, EU đã có một thời gian tương đối ngắn sử dụng một đồng tiền tính toán là đồng ECU. ECU chưa bao giờ tồn tại như một đồng tiền, nhưng các tài liệu và văn bản tính toán các giá trị kinh tế và cả giao dịch tài chính, thương mại sử dụng nó thì có thể tìm thấy khá sẵn ở cấp độ chính thức của chính phủ.
Cuối cùng, chúng ta cũng phải đi đến một khái niệm cho đồng tiền sơ khai: Tiền là bất cứ thứ gì được chấp nhận rộng rãi trong việc thanh toán và trong tính toán công nợ, thực hiện giao dịch tín dụng.
Theo : Vietnamica.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét