"Ở các nước, khi điều chỉnh tỷ giá phải cân đối cả thương mại và đầu tư. Thế nhưng ở Việt Nam, điều chỉnh tỷ giá vẫn chủ yếu chỉ liên quan tới chuyện thương mại chứ không đề cập tới chuyện đầu tư và chuyện nợ" - TS Vũ Đình Ánh, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu khoa học thị trường giá cả (Bộ Tài chính).
Trên thực tế, đã có những nước từ chối vay ODA vì xét thấy rủi ro lớn hoặc điều kiện quá chặt chẽ.
Ví dụ, vay của Nhật Bản thì phải sử dụng các nhà thầu của Nhật Bản, vật liệu xây dựng, thiết kế, tư vấn giám sát cũng phải của Nhật Bản.
Điển hình như Hàn Quốc không nhận ODA, FDI mà lựa chọn mô hình đi vay - trả sòng phẳng theo cơ chế thị trường (không cần biết sẽ làm thế nào để trả nợ, miễn sao trả được nợ).
Một rủi ro rất lớn khác là cả trong thực tế và trong lý thuyết, khi thanh toán đều thường phải quy ra USD dẫn tới nảy sinh rủi ro chéo - rủi ro giữa đồng tiền thực tế vay mượn và đồng tiền quy ra để hạch toán nợ.
Chẳng hạn, đồng Yên lên giá so với USD, khi đó, quy mô nợ phải thanh toán không chỉ cộng thêm khoản “trội” do tăng tỷ giá giữa đồng Việt Nam với USD mà còn “cộng hưởng” thêm khoản “trội” do tăng tỷ giá giữa đồng Yên với USD. “Đơn cử như vừa qua, khi tỷ giá giữa Yên với USD tăng từ 85Yên/1USD lên 80 Yên/1USD, tự nhiên khối lượng nợ của Việt Nam lại tăng vọt”.
Trong khi đó, ở Việt Nam, một số chuyên gia đã nhiều lần cảnh báo về tư duy “cứ vay được là vay, bất cần tính toán”. Nhìn vào hiện trạng nợ vay nước ngoài nói chung, nếu so với các quốc gia khác trên thế giới, tỷ lệ nợ vay của Việt Nam thấp hơn song lại kém an toàn hơn.
Cụ thể, tỷ lệ vay nợ nước ngoài của Việt Nam hiện chỉ chiếm 40% GDP, trong khi Nhật Bản đang có tỷ lệ khoảng 120 - 130%GDP, nhưng khoản nợ của Việt Nam vẫn bị đánh giá là “xấu” hơn so với khoản nợ của Nhật Bản.
(Ảnh minh họa) |
Lý do là Nhật Bản vay nợ nước ngoài trong bối cảnh dân Nhật không chịu chi tiêu, thế nên Chính phủ đứng ra vay để huy động vốn rồi chi tiêu hộ. Khoản nợ này được dành để duy trì nền kinh tế và sự vận động của dòng tài chính. Còn Việt Nam vay để dành một phần bù đắp thâm hụt ngân sách.
Quay lại với “câu chuyện” ODA Việt Nam, các chuyên gia khẳng định hiện rất khó biết chính xác khoản nợ của Việt Nam là bao nhiêu, lộ trình trả nợ như thế nào. Cần lưu ý rằng song hành với ưu điểm, ODA cũng đi kèm với không ít bất lợi.
Cụ thể, các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh - quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị... Vì vậy, họ đều có chính sách riêng hướng vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế.
Ví dụ, về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của nước tài trợ. Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục hàng hoá mới của nước tài trợ; yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao
Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng thường gắn với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù hợp, thậm chí là không cần thiết đối với các nước nghèo. Ví như các dự án ODA trong lĩnh vực đào tạo, lập dự án và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia nước ngoài thường chiếm đến hơn 90%.
Bên nước tài trợ ODA thường yêu cầu trả lương cho các chuyên gia, cố vấn dự án của họ quá cao so với chi phí thực tế cần thuê chuyên gia như vậy trên thị trường lao động thế giới.
Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt nhập khẩu tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất.
Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia.
Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch thu hút và sử dụng vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý thấp, thiếu kinh nghiệm trong quá trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự án… khiến cho hiệu quả và chất lượng các công trình đầu tư bằng nguồn vốn này còn thấp... có thể đẩy nước tiếp nhận ODA vào tình trạng nợ nần.
Theo Ngọc Mai
Bee
Bee
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét