Một số bài viết có ý kiến và quan điểm về lãi xuất : thực dương ,thực âm , để các bạn tham khảo .
Định hướng mới về chính sách tiền tệ
Ngày 29/8, Ngân hàng Nhà nước đã chính thức công bố các thông tin cơ bản về nội dung cuộc họp với 12 ngân hàng thương mại lớn vào cuối tuần qua.
Về lãi suất, các ngân hàng cam kết thực hiện nghiêm túc trần lãi suất huy động 14%/năm và đồng thuận giảm lãi suất cho vay đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường xuống 17-19%/năm từ giữa tháng 9/2011.
Trên cơ sở bám sát chỉ đạo của Chính phủ, tình hình thực tế của thị trường và ý kiến của các ngân hàng thương mại, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã có ý kiến kết luận về các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng trong 4 tháng cuối năm .................
End the Fed - Theo Giangle – Kinhtetaichinh.blogspot.com
Có một bạn hỏi ý kiến tôi về phát biểu mới đây của thống đốc Nguyễn Văn Bình về "định hướng lâu dài lãi suất tiền gửi không thể thực dương". Tìm hiểu thêm về đoạn trả lời phỏng vấn này của thống đốc, tôi phát hiện ra rằng lập luận của ông Bình rất giống quan điểm của Ron Paul trong quyển "End the Fed" phát hành năm 2009. Đại loại là thống đốc Bình phân chia chức năng "giữ hộ tiền", theo ngôn ngữ của Ron Paul là "warehouse", với chức năng đầu tư (risky investment) trong hệ thống tài chính. Nếu ngân hàng chỉ làm chức năng warehouse thì người gửi tiền phải trả phí để được ngân hàng giữ hộ tiền cho mình và điều này tương đương với lãi suất (thực) âm. Hi vọng thống đốc Bình không phải là fan của Ron Paul, nếu không ông sẽ là central banker đầu tiên trên thế giới muốn bãi bỏ institution mà mình lãnh đạo theo lời kêu gọi của một lãnh tụ Tea Party bên Mỹ.
Trước khi phân tích thêm về chức năng warehouse và investment của các ngân hàng, xin được nói lại là lãi suất âm, kể cả lãi suất danh nghĩa chứ không chỉ lãi suất thực, không phải là điều không thể xảy ra. Mấy ngày gần đây một số ngân hàng Thụy sĩ bắt đầu trả lãi suất danh nghĩa âm, nghĩa là khách hàng phải trả phí để được gửi tiền vào tài khoản của họ. Đây là hệ quả của việc đồng Swiss franc tăng giá quá mạnh nên số lượng tiền gửi vào các ngân hàng Thụy sĩ tăng lên quá nhanh và các ngân hàng không biết phải làm gì với số tiền này. Tình trạng tương tự cũng xảy ra với một ngân hàng lớn của Mỹ ngay cả khi đồng USD đang bị mất giá trầm trọng. Điều đó có nghĩa là các ngân hàng hiện nay đang dần thiên về chức năng warehouse thay vì chức năng intermediary và lý do của sự chuyển dịch này đơn thuần vì kinh tế thế giới đang có nguy cơ suy thoái trở lại. Ở đây tôi xin nhấn mạnh vào điểm các ngân hàng được quyền tự do quyết định thiên về chức năng warehouse hay intermediary tùy vào tình hình kinh tế và dự báo của họ.
Trong khi đó theo quan điểm của Ron Paul và thống đốc Nguyễn Văn Bình, nhà nước phải tách bạch 2 chức năng này ra 2 nhánh riêng biệt trong hệ thống tài chính để ngăn ngừa rủi ro. Về bản chất đây là ý tưởng chống lại hệ thống fractional reserve banking mà tôi đã có lần đề cập đến trước đây. Ý tưởng yêu cầu ngân hàng phải có 100% reserve, nghĩa là không được cho vay số tiền mà khách hàng gửi vào mà chỉ được cho vay bằng số vốn tự có của mình, đã xuất hiện trong giới kinh tế trước Ron Paul khá lâu (trường phái full reserve banking). Những người ủng hộ gold standard (như Ron Paul) thường không phân biệt rõ fiat money và fractional reserve banking, đánh đồng 2 khái niệm này với nhau và cho rằng đây là "ý chí" của nhà nước mặc dù trên thực tế cả fiat money và fractional reserve banking đều là phát kiến của thị trường để giải quyết nhu cầu medium of exchange ngày càng tăng. Một số conspiracy theorists thậm chí đi xa hơn cho rằng hệ thống fiat money và central banking là kết quả của sự thao túng nhà nước của một/vài gia tộc tài chính lớn như Rothschild hay Morgan. Rồi thậm chí cả IMF/WB cũng là những cánh tay nối dài của các banking dynasty này.
Lãi suất thực: Âm hay dương?
Ngân hàng Nhà nước vẫn nên lấy lãi suất thực dương làm chủ đạo trong trung và dài hạn.
Việc Ngân hàng Nhà nước đã quyết tâm hạ lãi suất huy động xuống còn 14%/năm và lãi suất cho vay xuống 17-19%/năm, khiến một số chuyên gia lo ngại lãi suất không còn thực dương nữa liệu rằng lãi suất có cần phải luôn luôn thực dương hay không?
Cho đến tháng 8.2011, mức lạm phát theo tháng có chiều hướng giảm nhưng mức giảm còn chậm và lạm phát theo năm vẫn còn tiếp tục tăng cao lên trên 23%. Điều đó cho thấy kiềm chế lạm phát vẫn nên là mục tiêu hàng đầu của việc điều hành chính sách. Tuy nhiên, gần đây, Ngân hàng Nhà nước đã quyết tâm hạ lãi suất huy động xuống còn 14%/năm và lãi suất cho vay xuống 17-19%/năm, khiến một số chuyên gia lo ngại lãi suất không còn thực dương nữa (đối với nhiều chuyên gia kinh tế, lãi suất huy động nên được tăng lên đủ đảm bảo lãi suất thực dương để kiềm chế lạm phát). Điều đó có mâu thuẫn với mục tiêu kiềm chế lạm phát mà Chính phủ đeo đuổi bấy lâu nay?
Lãi suất thực có nhất thiết phải luôn luôn dương?
Một số ý kiến cho rằng lạm phát cao trên 20% trong khi lãi suất huy động của các ngân hàng chỉ ở mức 17-19% (thời gian qua, đã có không ít tổ chức tín dụng phá rào trần lãi suất huy động 14%) nên lãi suất thực đang âm. Tuy nhiên, theo quan điểm của người viết, do chưa có một cách tính lạm phát kỳ vọng phù hợp và lòng tin vào chính sách chưa mạnh, nên không ít người dùng lạm phát hiện tại để tính lãi suất thực (theo lý thuyết, lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - lạm phát kỳ vọng).
Hơn nữa, lạm phát thông thường (headline inflation) được Tổng cục Thống kê công bố chỉ có ý nghĩa phản ánh mức thay đổi tương đối về chi phí sinh hoạt hằng ngày, vốn được sử dụng nhiều trong việc điều chỉnh lương hơn là cho chính sách tiền tệ. Do đó, lạm phát thường được sử dụng khi tính lãi suất thực ở đây nên là lạm phát cơ bản (core inflation), tức là mức lạm phát sau khi đã loại trừ những yếu tố biến động mang tính thời vụ.
Lạm phát cơ bản chưa được công bố bởi Tổng cục Thống kê, nhưng theo cách tính của người viết, hiện tại lạm phát cơ bản vào khoảng 13-14%. Với quyết tâm kiềm chế lạm phát bằng chính sách tiền tệ và tài khóa kết hợp của Chính phủ, lạm phát được đa số chuyên gia cho rằng sẽ giảm dần. Do đó, lạm phát kỳ vọng hiện nay nên chỉ ở mức 13%, hoặc thấp hơn. Nói cách khác, lãi suất huy động ở mức 14% hiện nay (các ngân hàng đã đồng thuận tuân thủ nghiêm quy định trần lãi suất huy động 14% từ ngày 8.9.2011) là lãi suất thực dương.
Nâng lãi suất là liều thuốc cần thiết khi chống lạm phát nhưng mức tăng lãi suất nên hướng đến lãi suất thực dương trong trung và dài hạn, chứ không nên cứng nhắc là phải đạt được lãi suất thực dương ở mọi thời điểm. Nó nên được thực hiện với một liều lượng hợp lý, linh động để bảo đảm lợi ích tối đa cho xã hội chứ không phải chỉ cho người gửi tiền trong ngắn hạn. Việc lãi suất cho vay ở mức rất cao trên 20% trong một thời gian dài sẽ không khuyến khích sản xuất và đầu tư vào một số lĩnh vực quan trọng. Điều đó có thể dẫn đến tình trạng lạm phát đình đốn (stagflation), tức nền kinh tế trì trệ nhưng lạm phát vẫn cao.
Trên thực tế, những dấu hiệu của lạm phát đình đốn đã xuất hiện trong một số lĩnh vực. Chẳng hạn, dù giá bán heo đã tăng cao (nghĩa là người chăn nuôi có thể kiếm lời lớn từ việc nuôi heo) nhưng nhiều hộ gia đình vẫn bỏ chuồng trại vì chi phí thức ăn chăn nuôi tăng mạnh, lãi suất vay vốn cao.
Khi lạm phát có nguy cơ tăng cao, việc nâng lãi suất cơ bản để nâng mặt bằng lãi suất là điều đầu tiên các ngân hàng trung ương cần làm. Vần đề là nhiều ngân hàng trung ương vướng vào bẫy tăng lãi suất quá mức trong khi lạm phát lại do nhiều nguyên nhân gây ra. Tăng lãi suất bao nhiêu là hợp lý luôn là thách thức lớn đối với các ngân hàng trung ương.
Lãi suất thực dương nhìn từ Thái Lan và Trung Quốc
Lãi suất tiền gửi của Thái Lan hầu như luôn thấp hơn mức lạm phát trong vòng 10 năm qua. Nói cách khác, nếu tính lãi suất thực theo lạm phát thông thường, lãi suất thực ở Thái Lan gần như luôn luôn âm. Nhưng nếu tính dựa trên lạm phát cơ bản thì có thể thấy lãi suất thực ở nước này vẫn dương và chỉ âm trong vài giai đoạn ngắn.
Ngoài áp dụng chính sách tiền tệ, Thái Lan còn thực hiện hiệu quả một số chính sách khác để kiểm soát lạm phát. Do đó, không có gì khó hiểu khi Thái Lan vẫn kiểm soát lạm phát khá tốt.
Trường hợp của nền kinh tế Trung Quốc cũng cho thấy điều tương tự. Lãi suất tiền gửi năm 1994 của nước này thậm chí còn thấp hơn lạm phát thông thường đến gần 20%. Thế nhưng, lạm phát vẫn đi xuống khá nhanh sau khi tăng mạnh.
Theo quan điểm của người viết, trong chính sách điều hành, Ngân hàng Nhà nước vẫn nên lấy lãi suất thực dương làm chủ đạo vì trong trung và dài hạn, chính sách này sẽ giúp kiềm chế lạm phát bằng cách khuyến khích tiết kiệm, tăng cường hiệu quả đầu tư, hạn chế tình trạng đầu cơ vào hàng hóa. Tuy nhiên, bài học từ các nước như Thái Lan và Trung Quốc cho thấy một điều: Chính phủ vẫn có thể kiểm soát lạm phát khi lãi suất thực âm nếu lạm phát bị ảnh hưởng nhiều bởi nguồn cung (thời tiết, dịch bệnh…) và nhất là trong giai đoạn kinh tế suy thoái, tổng cầu giảm mạnh.
Người viết cũng cho rằng, Việt Nam hiện nay đã hội đủ điều kiện để áp dụng chính sách trên. Dù xuất khẩu tăng trưởng tốt và thâm hụt thương mại giảm, nhưng tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vẫn giảm do sức tiêu thụ nội địa suy yếu. Tổng lượng hàng hóa bán lẻ chỉ tăng 3-4% trong 8 tháng đầu năm (riêng trong 2 tháng gần đây, lượng hàng bán lẻ còn giảm so với năm trước), thấp nhất trong nhiều năm. Hàng tồn kho của rất nhiều mặt hàng lại tăng mạnh.
Trong khi đó, đã có nhiều yếu tố cho thấy áp lực lạm phát đã bắt đầu giảm. Yếu tố dẫn đến lạm phát cao trong những tháng qua không phải do cầu mạnh mà là do cung thực phẩm yếu. Vì thế, giải pháp tốt nhất là kích thích nguồn cung thực phẩm, chứ không phải tiếp tục giảm cầu.
Chính phủ đã đi đúng hướng trong việc giảm lãi suất theo mức giảm lạm phát, tăng cường hỗ trợ ngành nông nghiệp, chăn nuôi thông qua việc ưu đãi lãi suất, hỗ trợ nông dân tham gia bảo hiểm nông nghiệp… Tuy nhiên, không ít mối quan ngại cho rằng nếu lãi suất thấp hơn lạm phát thì sẽ dẫn đến tín dụng tăng nhanh, thâm hụt thương mại và lạm phát có thể tiếp tục bị đẩy lên, nhất là đối với nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh như Việt Nam.
Về vấn đề này, theo người viết, tổng cung tín dụng và chất lượng tín dụng cũng quan trọng không kém mức lãi suất. Nếu Ngân hàng Nhà nước quyết tâm giữ tăng trưởng tín dụng thấp hơn 20%, tăng trưởng cung tiền M2 thấp hơn 15% và điều phối tín dụng hợp lý thì sẽ có thể giảm lãi suất mà không ảnh hưởng nhiều đến thâm hụt thương mại và lạm phát.
Có thể thấy, một trong những nguyên nhân làm cho hiệu quả đầu tư của toàn nền kinh tế Việt Nam thấp là chất lượng tín dụng kém, chứ không chỉ do chi phí tín dụng rẻ (tất nhiên, chi phí rẻ cũng góp phần tạo nên chất lượng kém).
Theo dự báo của người viết, rủi ro lạm phát tăng cao trong tháng 11 và 12 là hoàn toàn có thể xảy ra. Nhiều khả năng giá gạo xuất khẩu của Thái Lan sẽ tăng khoảng 20% khi chính phủ nước này bắt đầu mua gạo vào và hạn chế xuất khẩu từ tháng 10 tới. Rủi ro lạm phát cao xảy ra trong tháng 11 có lẽ không thấp nếu Chính phủ Việt Nam không có quyết sách can thiệp kịp thời vào thị trường gạo.
Theo nhipcaudautu
Lạm phát và lãi suất: Nước lên, thuyền lên
Từ tháng 4-2011 lạm phát đã bắt đầu giảm nhiệt, song lãi suất cao vẫn đang là vấn đề đau đầu đối với Ngân hàng Nhà nước (NHNN), cơ quan có trách nhiệm điều hành chính sách tiền tệ. Thực ra các doanh nghiệp còn đau đầu hơn, bởi lãi suất cho vay của ngân hàng thấp cũng đã 18-20%, cao thì tới 22-25%, lợi nhuận nào chịu cho thấu! Các ngân hàng thương mại cũng không vui vẻ gì, bởi lãi suất huy động của họ không thể chỉ là 14% như trần quy định, mà đã phải cao hơn nhiều để giữ tiền gửi không chảy sang ngân hàng khác.
Để ngăn chặn ngân hàng thương mại tùy tiện trả lãi suất huy động vượt trần và tăng lãi suất cho vay, đã có ý tưởng quy định cả trần lãi suất cho vay. Song ý tưởng này chưa thành hiện thực, bởi có e ngại rằng mức trần lãi suất cho vay này cũng sẽ bị vô hiệu hóa như trần lãi suất huy động. Sự lúng túng này thể hiện tư duy chưa rõ ràng về mối liên hệ nhân quả giữa lạm phát với lãi suất.
Muốn giảm được lãi suất ngân hàng thì trước tiên cần phải đẩy lùi lạm phát.
Nước lên, thuyền lên
Thành ngữ trên diễn đạt tương quan vật lý giữa nước và thuyền, cũng diễn đạt mối quan hệ nhân quả giữa hai sự việc. Để phù hợp với ý tưởng nêu trong bài này, xin mạn phép được cải biên thành ngữ trên thành “lạm phát tăng (giảm), lãi suất tăng (giảm)”, trong đó lạm phát là nhân, lãi suất là quả. Cách hiểu như vậy không có gì mới, bởi lãi suất thực chất cũng chỉ là một loại giá: giá vốn vay. Trong điều kiện lạm phát, mọi giá đều tăng, cho nên giá vốn vay (hay lãi suất) có tăng cũng là điều hợp lẽ.
Thực tế cho thấy lạm phát và lãi suất đồng hành, tuy cùng chiều, nhưng lãi suất luôn cao hơn lạm phát, bởi trong quan hệ tín dụng, nguyên tắc lãi suất huy động thực dương được chấp nhận nhằm bảo đảm cho người gửi tiền có “lãi”. Thật vậy, những năm trước đây, khi lạm phát ở mức 5-7%, lãi suất huy động trên dưới 10% là đã được chấp nhận, bởi sau khi trừ đi khoản mất giá do lạm phát, người gửi tiền vẫn còn có thể lãi được 3-4%. Bởi vậy khi lạm phát lên tới 11,75% (năm 2010), theo nguyên tắc lãi suất dương, các ngân hàng đã chủ động nâng lãi suất huy động lên cao hơn lạm phát nhằm giữ chân người gửi tiền.
Trước tình thế đó, NHNN cảm thấy cần trực tiếp can thiệp để đưa lãi suất huy động đi vào trật tự. Tháng 3-2011, NHNN ra thông tư quy định trần lãi suất huy động 14%. Con số 14% có lẽ cũng bắt nguồn từ nguyên tắc lãi suất thực dương, nhưng lại tính trên cơ sở so sánh một con số tĩnh (trần lãi suất 14%) với một con số động (11,75%, lạm phát vào thời điểm 12-2010). Vì thế khi trần lãi suất tiếp cận được với lạm phát, thì lạm phát đã là con số cao hơn. Chỉ trong ba tháng đầu năm 2011, lạm phát đã tăng thêm 6%, tức là đã vượt trần lãi suất huy động ngay tại thời điểm nó được ban hành.
Nếu từ tháng 3-2011, ngân hàng chỉ trả cho người gửi tiền đúng theo trần lãi suất, lãi suất thực sẽ không còn là dương nữa, mà đã trở thành âm. Tính tới tháng 6-2011, lạm phát đã lên đến 13,29%, dự kiến cả năm có thể lên tới 18-20%, vượt xa lãi suất trần. Người gửi tiền cảm thấy “lỗ” và phản ứng tự nhiên là muốn rút tiền về để đưa vào nơi trú ẩn an toàn hơn.
Để tránh tình trạng rút tiền ồ ạt, các ngân hàng phải tìm cách “lách” luật. Về danh nghĩa họ vẫn chỉ trả lãi suất tối đa là 14%, nhưng lại trả thêm các khoản thưởng, khuyến mãi... sao cho lãi suất thực lại trở thành dương. Ý tưởng khống chế lãi suất huy động bằng biện pháp hành chính của NHNN đã không hiệu quả.
Nước xuống, thuyền mới xuống được
Với nhận thức lãi suất là một loại giá, lãi suất huy động phải biến động theo lạm phát. Lạm phát khiến giá cả vật tư, hàng hóa tăng, cầu vốn kinh doanh tăng. Cùng lúc, Nhà nước lại thi hành chính sách tiền tệ thắt chặt, cung vốn hạn chế. Trong tình thế đó, lãi suất tăng là đúng theo quy luật khách quan. Một mặt nó khuyến khích tăng cung (thu hút thêm tiền gửi vào ngân hàng), mặt khác hạn chế cầu (người ta chỉ vay khi có lợi). Cho nên lãi suất tăng (giảm) chính là cơ chế tự cân đối cung cầu vốn vay của kinh tế thị trường. Nếu lạm phát tiếp tục tăng, thì lãi suất tất phải tăng theo, dù cho Nhà nước có dùng quyền lực quy định lãi suất trần, như đã làm, thì trong thực tế các ngân hàng thương mại cũng tìm ra cách phá thủng cái trần đó.
Một nền kinh tế mà lãi suất huy động và lãi suất cho vay đều quá cao là một nền kinh tế không bình thường, chứa đựng nhiều nhân tố không ổn định. Trong mối tương quan “nước lên, thuyền lên”, nếu muốn “thuyền xuống”, thì “nước phải xuống”. Muốn giảm lãi suất, phải giảm được lạm phát, chứ không phải ngược lại. Cho nên cuộc chiến giảm lãi suất nằm trong và dựa vào kết quả cuộc chiến chống lạm phát. Những điều này đã được đề cập trong Nghị quyết 11. Vấn đề là ở chỗ vận dụng cụ thể sao cho đồng bộ.
(TBKTSG
Interest rate - Theo Giangle – Kinhtetaichinh.blogspot.com
Vấn đề lãi suất thực âm/thực dương hóa ra "nóng" hơn tôi nghĩ, dưới đây tôi sẽ trình bày một số lập luận về vấn đề này trên quan điểm kinh tế học. Tôi tạm bỏ qua vấn đề lạm phát ở đây, không phải nó không quan trọng mà để tập trung vào khái niệm lãi suất thực. Trong bài này trừ những chỗ tôi nói rõ là lãi suất danh nghĩa, thuật ngữ lãi suất sẽ được hiểu là lãi suất thực. Tôi cũng bỏ qua không phân biệt giữa lãi suất ngắn hạn và dài hạn, risky vs risk free... để không bị sa đà vào những tiểu tiết phức tạp của thị trường tài chính.
Trong kinh tế học lãi suất là một loại giá (price of capital) và nó phụ thuộc vào tương tác giữa cung và cầu trong thi trường vốn. Xin nhấn mạnh cung và cầu ở đây phải hiểu là supply/demand schedules hay functions chứ không phải một điểm cụ thể (bạn không thể nói cung là 100 đơn vị hay cầu là 200 đơn vị mà không nói những con số đó gắn liền với mức giá nào). Trên thị trường vốn, tạm bỏ qua nguồn vốn nước ngoài, nguồn cung vốn do các khoản tiết kiệm của người dân (giới doanh nghiệp và nhà nước thường có tiết kiệm âm). Cung vốn, hay capital supply, phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố trong đó lãi suất chỉ là một. Ví dụ nhu cầu tiết kiệm của người dân phụ thuộc vào tình hình kinh tế xã hội nói chung, điều kiện/chi phí y tế, giáo dục, tần suất thiên tai... Một yếu tố rất quan trọng mà nhiều lý thuyết/mô hình kinh tế cho rằng có ảnh hưởng lớn lên nhu cầu tiết kiệm của người dân là intertemporal discount factor, nghĩa là ý chí chủ quan của từng cá nhân khi phân bổ tiêu dùng giữa hiện tại và tương lai. Khái niệm này rất gần nhưng không hoàn toàn là time value of money mà nhiều sách tài chính vẫn nhắc đến. Trong một mô hình cân bằng tổng thể (general equilibrium) discount factor phải bằng lãi suất.
Cầu vốn, capital demand, phụ thuộc vào nhu cầu sử dụng vốn của doanh nghiệp và nhà nước, đồng thời nhu cầu vay tiêu dùng của cá nhân nếu họ vay được (không bị liquidity constraint). Đối với doanh nghiệp đi vay đầu tư, giá vốn hay cost of capital (tạm thời không phân biệt equity vs debt capital) phải được so sánh với lợi ích của nó đem lại. Nghĩa là lãi suất phải thấp hơn marginal benefit of capital thì doanh nghiệp mới đi vay (hoặc raise equity) để đầu tư. Nói theo ngôn ngữ tài chính thông dụng thì IRR phải lớn hơn lãi suất thì doanh nghiệp mới đầu tư. IRR của một dự án đầu tư hay của cả nền kinh tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố, một trong những yếu tố quan trọng theo kinh tế học là ảnh hưởng của hiện tượng diminishing marginal product of capital, nghĩa là khi một doanh nghiệp hay một quốc gia có quá ít capital thì lợi ích của một đồng vốn mới sẽ lớn hơn nhiều so với khi họ đã có thừa thãi capital. Một mô hình cân bằng tổng thể sẽ có kết quả marginal product of capital bằng với lãi suất, nghĩa là MPC=DF.
Vậy trong dài hạn khi supply và demand của thị trường vốn cân bằng thì lãi suất ở trạng thái equilibrium đó có thể âm hay không? Xét về phía demand lãi suất âm tương đương với MPC âm (IRR âm) nghĩa là những dự án đầu tư của nền kinh tế không tạo thêm của cải cho xã hội mà làm triệt tiêu bớt những gì đã có. Điều này sẽ làm tổng lượng vốn trong xã hội giảm dần và đến một lúc nào đó lãi suất sẽ phải tăng trở lại (nguyên lý diminishing return bên trên). Xét về phía supply, lãi suất âm cho thấy những yếu tố ngoài lãi suất phải có tác động rất mạnh để người dân chấp nhận vẫn tiếp tục tiết kiệm dù họ biết sẽ bị mất một phần tài sản trong tương lai. Những yếu tố ngoài lãi suất đó phải rất xấu, vd khủng hoảng, chiến tranh, thiên tai, và không ai cho rằng chúng sẽ tồn tại vĩnh viễn (i.e. tận thế). Nghĩa là những người tiết kiệm, supplier of capital, chỉ chấp nhận lãi suất âm trong ngắn hạn để vượt qua giai đoạn khó khăn. Ngay cả nếu những yếu tố khó khăn đó kéo dài hơn dự kiến thì lãi suất vẫn phải tăng trở lại vì tổng vốn của xã hội bị tiêu hao do yếu tố IRR âm bên trên.
Tóm lại, trên quan điểm kinh tế học một nền kinh tế lành mạnh (với nghĩa có tăng trưởng ổn định) sẽ phải có lãi suất dương trong dài hạn. Đây là quan điểm của standard (neoclassical) economics, không liên quan gì đến Keynesian hay Austrian schools. Lập luận của Ron Paul/Nguyễn Văn Bình về lãi suất thực âm vì người dân phải trả tiền cho warehouse giữ hộ tiền cho họ thực ra không đầy đủ. Trong một nền kinh tế thị trường tự do, nếu doanh nghiệp có MPC dương (IRR dương) họ sẽ tìm cách huy động vốn và người dân sẽ được hưởng lãi suất dương kiểu này hay kiểu khác (thông qua mutual funds, money market funds, preferred shares...).
Trong kinh tế học lãi suất là một loại giá (price of capital) và nó phụ thuộc vào tương tác giữa cung và cầu trong thi trường vốn. Xin nhấn mạnh cung và cầu ở đây phải hiểu là supply/demand schedules hay functions chứ không phải một điểm cụ thể (bạn không thể nói cung là 100 đơn vị hay cầu là 200 đơn vị mà không nói những con số đó gắn liền với mức giá nào). Trên thị trường vốn, tạm bỏ qua nguồn vốn nước ngoài, nguồn cung vốn do các khoản tiết kiệm của người dân (giới doanh nghiệp và nhà nước thường có tiết kiệm âm). Cung vốn, hay capital supply, phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố trong đó lãi suất chỉ là một. Ví dụ nhu cầu tiết kiệm của người dân phụ thuộc vào tình hình kinh tế xã hội nói chung, điều kiện/chi phí y tế, giáo dục, tần suất thiên tai... Một yếu tố rất quan trọng mà nhiều lý thuyết/mô hình kinh tế cho rằng có ảnh hưởng lớn lên nhu cầu tiết kiệm của người dân là intertemporal discount factor, nghĩa là ý chí chủ quan của từng cá nhân khi phân bổ tiêu dùng giữa hiện tại và tương lai. Khái niệm này rất gần nhưng không hoàn toàn là time value of money mà nhiều sách tài chính vẫn nhắc đến. Trong một mô hình cân bằng tổng thể (general equilibrium) discount factor phải bằng lãi suất.
Cầu vốn, capital demand, phụ thuộc vào nhu cầu sử dụng vốn của doanh nghiệp và nhà nước, đồng thời nhu cầu vay tiêu dùng của cá nhân nếu họ vay được (không bị liquidity constraint). Đối với doanh nghiệp đi vay đầu tư, giá vốn hay cost of capital (tạm thời không phân biệt equity vs debt capital) phải được so sánh với lợi ích của nó đem lại. Nghĩa là lãi suất phải thấp hơn marginal benefit of capital thì doanh nghiệp mới đi vay (hoặc raise equity) để đầu tư. Nói theo ngôn ngữ tài chính thông dụng thì IRR phải lớn hơn lãi suất thì doanh nghiệp mới đầu tư. IRR của một dự án đầu tư hay của cả nền kinh tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố, một trong những yếu tố quan trọng theo kinh tế học là ảnh hưởng của hiện tượng diminishing marginal product of capital, nghĩa là khi một doanh nghiệp hay một quốc gia có quá ít capital thì lợi ích của một đồng vốn mới sẽ lớn hơn nhiều so với khi họ đã có thừa thãi capital. Một mô hình cân bằng tổng thể sẽ có kết quả marginal product of capital bằng với lãi suất, nghĩa là MPC=DF.
Vậy trong dài hạn khi supply và demand của thị trường vốn cân bằng thì lãi suất ở trạng thái equilibrium đó có thể âm hay không? Xét về phía demand lãi suất âm tương đương với MPC âm (IRR âm) nghĩa là những dự án đầu tư của nền kinh tế không tạo thêm của cải cho xã hội mà làm triệt tiêu bớt những gì đã có. Điều này sẽ làm tổng lượng vốn trong xã hội giảm dần và đến một lúc nào đó lãi suất sẽ phải tăng trở lại (nguyên lý diminishing return bên trên). Xét về phía supply, lãi suất âm cho thấy những yếu tố ngoài lãi suất phải có tác động rất mạnh để người dân chấp nhận vẫn tiếp tục tiết kiệm dù họ biết sẽ bị mất một phần tài sản trong tương lai. Những yếu tố ngoài lãi suất đó phải rất xấu, vd khủng hoảng, chiến tranh, thiên tai, và không ai cho rằng chúng sẽ tồn tại vĩnh viễn (i.e. tận thế). Nghĩa là những người tiết kiệm, supplier of capital, chỉ chấp nhận lãi suất âm trong ngắn hạn để vượt qua giai đoạn khó khăn. Ngay cả nếu những yếu tố khó khăn đó kéo dài hơn dự kiến thì lãi suất vẫn phải tăng trở lại vì tổng vốn của xã hội bị tiêu hao do yếu tố IRR âm bên trên.
Tóm lại, trên quan điểm kinh tế học một nền kinh tế lành mạnh (với nghĩa có tăng trưởng ổn định) sẽ phải có lãi suất dương trong dài hạn. Đây là quan điểm của standard (neoclassical) economics, không liên quan gì đến Keynesian hay Austrian schools. Lập luận của Ron Paul/Nguyễn Văn Bình về lãi suất thực âm vì người dân phải trả tiền cho warehouse giữ hộ tiền cho họ thực ra không đầy đủ. Trong một nền kinh tế thị trường tự do, nếu doanh nghiệp có MPC dương (IRR dương) họ sẽ tìm cách huy động vốn và người dân sẽ được hưởng lãi suất dương kiểu này hay kiểu khác (thông qua mutual funds, money market funds, preferred shares...).
Muốn hạ lãi suất ,các nhóm lợi ích cần biết hy sinh
Để việc hạ lãi suất được bền vững thì phải xuất phát từ việc hạ kỳ vọng lạm phát chứ không phải là đi ngược lại quy trình này.
Và việc hạ kỳ vọng lạm phát, trong ngắn hạn, phải xuất phát từ việc hạ giá những chi tiêu cơ bản trong nền kinh tế như giá xăng, điện, giáo dục, y tế và lương thực.
Giảm lãi suất nhưng đừng để trở thành trợ giá cho nhóm lợi ích trung gian
Để việc hạ lãi suất được bền vững thì cần phải đi tìm nguyên nhân lãi suất cao. Từ những gì diễn ra, ta thấy có hai nguyên nhân cơ bản làm cho lãi suất cao thời gian qua là (1) các ngân hàng phải đẩy lãi suất huy động lên cao do đó góp phần đẩy mặt bằng lãi suất cho vay; (2) lãi suất huy động bị đẩy lên cao là do mặt bằng lạm phát cao và kỳ vọng lạm phát tương lai vẫn còn cao, cộng với tỷ suất sinh lợi cao của những công cụ đầu tư khác như vàng, buộc người dân đòi hỏi một mức sinh lợi lớn thì mới chịu gửi tiền vào ngân hàng.
Như vậy, giảm lãi suất phải bắt đầu từ việc hạ mặt bằng lạm phát kỳ vọng. Nói cách khác là làm cho người dân tin tưởng các biện pháp chống lạm phát của Chính phủ sẽ phát huy hiệu quả và kéo lạm phát về dưới một con số, tốt nhất là vào năm 2012.
Cho đến nay, dù đã thực hiện kiểm soát đầu tư công và thắt chặt tiền tệ, giá cả trong nền kinh tế vẫn bị đội lên, một phần do việc kiểm soát tài khóa chưa thật chặt chẽ, bên cạnh đó còn là do một số nhóm lợi ích kiểm soát các kênh phân phối của các mặt hàng nông sản, xăng dầu, điện, giáo dục, y tế... Điều này dẫn đến mặt bằng giá cả bán lẻ hiện tại bị đội lên nhiều so với giá bán sỉ và mặt bằng chi phí chung trong xã hội ở mức cao.
Nếu nói rằng hiện nay nhiều doanh nghiệp trong nền kinh tế khó khăn và thua lỗ do ảnh hưởng kinh tế toàn cầu thì không lý do gì chấp nhận một nhóm lợi ích có tỷ suất sinh lợi cao nhờ nắm giữ những mắt xích quan trọng trong các kênh phân phối và nắm vai trò gần như độc quyền ở một số lĩnh vực, và thậm chí nhóm lợi ích này còn thực hiện việc công bố lỗ trong khi họ thật sự là lời.
Do vậy, nếu nhóm lợi ích này chấp nhận chia sẻ gánh nặng về giá cả trong nền kinh tế thì có thể giúp mặt bằng giá cả được kiểm soát tốt hơn. Chỉ cần khi giá một số mặt hàng thiết yếu được kiềm chế, kỳ vọng lạm phát của người dân nhiều khả năng sẽ giảm đi và do đó giúp ích nhiều cho việc hạ lãi suất được bền vững.
Có ý kiến cho rằng giảm lãi suất trước mới làm giảm lạm phát. Ý kiến này dựa trên giả định lạm phát hiện tại là do chi phí đẩy. Theo đó, doanh nghiệp có thể đẩy được phần lớn chi phí tăng thêm vào giá bán cho người tiêu dùng gánh chịu. Nhưng điều đó chỉ đúng nếu nền kinh tế đang khan hiếm hàng hóa thì quyền lực làm giá (bargaining power) của doanh nghiệp mới thật sự có tác động lớn.
Nhưng tình hình tiêu thụ hàng hóa trên thị trường hiện tại và tình trạng hàng tồn kho của một số doanh nghiệp cho thấy một thực tế ngược lại (xem số liệu cụ thể trong bài “Điểm sáng đang mờ dần” tr. 44-45 số báo này).
Quyền lực làm giá của các doanh nghiệp sản xuất không lớn, đồng thời với sự tồn tại của những nhóm lợi ích có khả năng chi phối khâu phân phối trung gian và “làm giá” mạnh với những sản phẩm cuối cùng đến tay người tiêu dùng khiến cho lập luận hạ lãi suất có thể giúp hạ lạm phát cần phải có thêm nhiều chứng cứ thực tiễn đáng tin cậy.
Cho dù chi phí lãi vay của doanh nghiệp sản xuất hạ khiến họ có thể hạ giá bán ra thì thông qua kênh phân phối nó vẫn có thể được đẩy lên thêm để khi đến tay người tiêu dùng giá cả vẫn như cũ nhưng người đóng vai trò trung gian hưởng lợi thêm một phần nữa. Thực tế giá hàng hóa khi đến tay người tiêu dùng đã qua một hệ thống kênh phân phối chằng chịt trong nền kinh tế, nên có thể biến việc hạ lãi suất thành việc trợ giá thêm cho nhóm lợi ích trung gian phân phối trong nền kinh tế chứ không phải là chống lạm phát.
Vì vậy, hạ mặt bằng lãi suất và tiếp tục thực hiện phân phối tín dụng cho doanh nghiệp cần tiền để đảm bảo duy trì sản xuất và đảm bảo tăng trưởng, tránh vỡ nợ và thất nghiệp là hợp lý, nhất là trong bối cảnh khả năng tăng tín dụng vẫn còn đó (mức tăng tín dụng hiện tại trong hệ thống vẫn dưới mục tiêu 20% đề ra cho cả năm).
Tuy nhiên, không phải muốn hạ mặt bằng lãi suất một cách bền vững là có thể làm được nếu lạm phát tiếp tục cao. Sử dụng công cụ bơm thanh khoản, tái cấp vốn hay các biện pháp đồng thuận hạ lãi suất chỉ có thể tác động tạm thời đến mặt bằng lãi suất.
Nếu kỳ vọng lạm phát và mặt bằng lạm phát vẫn cao thì không thể hạ lãi suất được bền vững. Và càng không thể kỳ vọng hạ lãi suất sẽ chặn được lạm phát trong bối cảnh doanh nghiệp sản xuất không có nhiều quyền lực quyết định giá trong khi nhóm lợi ích có tác động lớn trong chuỗi phân phối thì vẫn có khả năng đẩy giá các mặt hàng thiết yếu lên cao.
Lãi suất cao và tính bất định: cái nào quan trọng hơn
Một số ngân hàng cho rằng hiện nay đang rất thừa tiền nhưng do lãi suất cho vay quá cao nên doanh nghiệp không thể chịu đựng nổi. Lập luận này đồng nghĩa với việc hệ thống ngân hàng phải hạ lãi suất. Tuy nhiên, liệu đây có phải là thông tin chính xác? Khi được ngân hàng điều tra hoặc phỏng vấn, đương nhiên các doanh nghiệp dễ trả lời do lãi suất cao nên họ không thể vay được.
Nhưng nếu cách hỏi đúng, doanh nghiệp có thể trả lời rằng họ không vay nợ vì nền kinh tế đang rơi vào tình trạng bất định quá lạ lùng. Điều tốt nhất, vì vậy, nên là chờ đợi và trong thời gian này họ buộc lòng phải thu hẹp sản xuất. Hơn nữa, truyền thông thế giới hàng ngày hàng giờ đều đề cập đến một giai đoạn mới của tăng trưởng bền vững trong tương lai là giảm nợ (deleveraging), nên có khả năng các doanh nghiệp nước ta đang trong quá trình cấu trúc lại, bắt đầu từ việc tái cấu trúc (giảm) nợ.
Hiện cũng chưa có bất kỳ một tổ chức độc lập đáng tin cậy nào công bố nguyên nhân các doanh nghiệp thu hẹp sản xuất là do lãi suất quá cao hay do tính bất định của nền kinh tế quá mạnh.
Chẳng hạn con số 30% doanh nghiệp được cho là phá sản trong thời gian qua còn thiếu nhiều thông tin quan trọng như tiểu sử hoạt động của các doanh nghiệp này trước đó tốt hay xấu (doanh nghiệp phá sản có suất sinh lợi bình quân 20% trở lên khác với doanh nghiệp thường xuyên thua lỗ); ngành nghề hoạt động có mang tính đầu cơ hay không; số lượng công nhân (doanh nghiệp phá sản có vài chục công nhân khác với vài ngàn)… Ai cũng biết dữ liệu thống kê ở nước ta cứ u u minh minh nên những thông tin thuộc dạng như thế cần phải được Ngân hàng Nhà nước xử lý thật thận trọng và khách quan.
Hãy nhìn vào sự thất bại của chương trình lãi suất cực thấp mà Ngân hàng Trung ương Mỹ đang triển khai mới thấy có phần nào giống với các doanh nghiệp nước ta. Kinh tế Mỹ hiện rơi vào một nghịch lý oái oăm, các ngân hàng và doanh nghiệp đều đang ngồi trên một đống tiền do hưởng lợi từ các chương trình kích thích kinh tế của ngân hàng trung ương và chính phủ. Thế nhưng các ngân hàng vẫn không thể cho vay mặc dù lãi suất cực thấp.
Nhiều nhà kinh tế Mỹ đã chỉ ra nguyên nhân chính của tình trạng trên là do tính bất định của nền kinh tế Mỹ và kinh tế toàn cầu. Cho dù lãi suất bằng 0 cũng không ai dám vay mượn. Sức cầu quá yếu và tương lai đầy bất ổn của kinh tế thế giới khiến cho dù có bơm bao nhiêu tiền và hạ lãi suất xuống bao nhiêu đi chăng nữa cũng không thể nào mở rộng được sản xuất.
Những tranh luận trên cho thấy để việc hạ lãi suất được bền vững thì phải xuất phát từ việc hạ kỳ vọng lạm phát chứ không phải là đi ngược lại quy trình này. Và việc hạ kỳ vọng lạm phát, trong ngắn hạn, phải xuất phát từ việc hạ giá những chi tiêu cơ bản trong nền kinh tế như giá xăng, điện, giáo dục, y tế và lương thực. Nếu được như thế, thì thông điệp của tân Thống đốc về việc có khả năng sắp tới Ngân hàng Nhà nước sẽ có những chính sách điều chuyển vốn từ ngân hàng thừa vốn sang ngân hàng thiếu vốn để giảm lãi suất mới là hướng đi thích hợp trong bối cảnh hiện tại.
Trong bối cảnh kinh tế khó khăn, những nhóm lợi ích doanh nghiệp và ngân hàng cần hiểu được rằng họ phải mất một chút ít lợi ích trước mắt để kéo nền kinh tế lên trở lại đường ray. Suy cho cùng cũng để họ thụ hưởng lợi ích lâu dài hơn.
Theo Trần Ngọc Thơ - Hồ Quốc Tuấn
(Theo Thời báo kinh tế Sài Gòn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét